Tình hình nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 9 tháng đầu năm 2025

Trong 9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực như ngô, đậu tương và lúa mì có diễn biến trái chiều. Trong khi ngô và đậu tương ghi nhận mức tăng nhẹ về lượng và kim ngạch, nhờ nguồn cung dồi dào từ Nam Mỹ, thì lúa mì lại sụt giảm cả về sản lượng lẫn giá trị do nhu cầu chững lại và giá thế giới biến động.

Nhập khẩu ngô: Có xu hướng tăng 

Theo số liệu sơ bộ của Cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu ngô đạt gần 8,19 triệu tấn, trị giá hơn 2,06 tỷ USD, với giá bình quân 252,1 USD/tấn, tăng lần lượt 1,3% về lượng, 4,1% kim ngạch và 2,7% về giá so với cùng kỳ 2024.

Riêng tháng 9/2025, Việt Nam nhập 1,45 triệu tấn ngô (338,4 triệu USD), tăng 13,3% về lượng và 7,4% về kim ngạch nhưng giá bình quân giảm 5,2% so với tháng trước. So với tháng 9/2024, các chỉ tiêu đều tăng trên 25%.

Argentina tiếp tục là nguồn cung lớn nhất, chiếm gần 55% tổng lượng nhập khẩu, đạt 4,49 triệu tấn, trị giá 1,13 tỷ USD, giá trung bình 251,2 USD/tấn. So với cùng kỳ 2024, lượng giảm 2,6% nhưng kim ngạch tăng 1,6% nhờ giá tăng 4,3%. Trong tháng 9, Việt Nam nhập từ Argentina 776.270 tấn, trị giá 180,6 triệu USD, thấp hơn tháng 8 nhưng cao hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường Brazil đứng thứ hai với 2,09 triệu tấn, tương đương 510,8 triệu USD, giảm hơn 11% về lượng và 12,6% kim ngạch. Ngoài ra, Việt Nam còn nhập từ Lào (52.000 tấn), Thái Lan (3.400 tấn) và Campuchia (63.000 tấn), song đều giảm so với năm trước.

Nhập khẩu ngô, đậu tương và lúa mì trong 9 tháng đầu năm 2025 có sự tăng nhẹ

Đậu tương: Tăng mạnh về lượng, giảm nhẹ giá

9 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu đậu tương đạt 1,95 triệu tấn, trị giá 904,9 triệu USD, giá bình quân 463,7 USD/tấn. So với cùng kỳ năm 2024, lượng nhập tăng 22,5%, kim ngạch tăng 9,6%, nhưng giá giảm 10,5%. Riêng tháng 9, nhập khẩu đạt 140.547 tấn, trị giá 67,3 triệu USD, giảm hơn 50% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 8, nhưng giá tăng nhẹ 0,6%.

Brazil là nguồn cung chủ đạo, chiếm hơn 56% tổng lượng, với 1,11 triệu tấn, trị giá 518,5 triệu USD, giá trung bình 469 USD/tấn; lượng tăng 17,6% và kim ngạch tăng 10,4% so với cùng kỳ, nhưng giá giảm 6,1%. Tháng 9, lượng nhập từ Brazil giảm mạnh gần 70% so với tháng trước.

Mỹ đứng thứ hai, đạt 667.200 tấn (301,4 triệu USD), tăng hơn 29% về lượng nhưng giá giảm 15,6%. Tiếp theo là Canada, với 142.000 tấn (67,9 triệu USD), tăng mạnh 45,4% về lượng, song giá bình quân giảm gần 20%.

Lúa mì: Giảm cả về lượng và kim ngạch

Trái ngược với ngô và đậu tương, nhập khẩu lúa mì trong 9 tháng 2025 đạt 4,19 triệu tấn, trị giá 1,12 tỷ USD, giá trung bình 267,3 USD/tấn – giảm 7,9% về lượng, 10,6% kim ngạch và 3% về giá so với cùng kỳ 2024.

Tháng 9/2025, nhập khẩu chỉ đạt 373.330 tấn (98,75 triệu USD), giảm hơn 30% so với tháng trước và hơn 55% so với cùng kỳ năm ngoái.

Australia vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm khoảng 25% tổng lượng nhập khẩu, với 1,06 triệu tấn, trị giá 289,2 triệu USD, tăng 18% về lượng nhưng giá giảm 11,4%. Tuy nhiên, riêng tháng 9, lượng nhập từ Australia giảm sâu gần 97% so với tháng 8.

Đứng thứ hai là Brazil với 989.000 tấn (254,4 triệu USD), giảm 15,8% về lượng nhưng giá tăng 3,1%. Mỹ là nguồn cung thứ ba, đạt 589.500 tấn (162,6 triệu USD), tăng hơn 55% về lượng song giá giảm gần 14%.

Tổng quan, 9 tháng năm 2025 ghi nhận xu hướng tăng nhẹ ở nhóm ngô và đậu tương nhờ nguồn cung ổn định từ Nam Mỹ, trong khi lúa mì giảm mạnh do nhu cầu chậm lại và giá thế giới biến động.

Cẩm Anh (tổng hợp)

Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam

(https://nhachannuoi.vn/tinh-hinh-nhap-khau-ngo-dau-tuong-va-lua-mi-trong-9-thang-dau-nam-2025/, ngày 31/10/2025)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *